Mai Thái Lĩnh - Sự thật về Thác Bản Giốc (Phần I)

Vào những tháng cuối năm 2011, <em>"Thác Bản Giốc"</em>
bỗng nhiên lại trở thành đề tài hàng đầu của báo chí
trong nước. Điều khiến cho các nhà báo cảm thấy bức xúc là
tình trạng mất cân đối giữa hai bên: trong khi ngành du lịch
Trung Quốc thu hút được gần một triệu du khách hàng năm nhờ
vào thắng cảnh này thì về phía Việt Nam, số lượng du khách
đến thăm Thác Bản Giốc chỉ vào khoảng 30 ngàn. Nhiều lý do
đã được nêu ra để lý giải: do cơ sở hạ tầng còn yếu
kém, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, do <em>"Hiệp
định hợp tác khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc"
chưa được ký kết, v.v… Thậm chí, trên báo Thanh Niên, các
phóng viên còn biểu lộ lòng yêu nước bằng cách phê phán các
báo phương Tây (như trang mạng News.com.au của Úc hay tạp chí
Life của Mỹ) đã "xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ
Việt Nam" khi chú thích ảnh chụp Thác Bản Giốc là "Detian
Falls, China"</em> (Thác Đức Thiên, Trung Quốc).[1]

Vấn đề đặt ra là: tại sao trong khi chưa ký kết <em>"hiệp
định hợp tác"</em>, phía Trung Quốc vẫn có thể tiến hành
khai thác du lịch một cách có hiệu quả không cần đến sự
hỗ trợ của phía Việt Nam? Ngược lại, tại sao phải cần
đến một <em>"hiệp định hợp tác"</em> thì Thác Bản Giốc
của nước ta mới có thể <em>"cất cánh"</em>? Hơn thế
nữa, tại sao Thác Bản Giốc lại trở thành Thác Đức Thiên,
tại sao một thác nước trước đây được coi là của riêng
Việt Nam nay lại trở thành <em>"thác nước chung"</em> của
hai quốc gia? Trên báo chí hợp pháp (thường được gọi là
báo chí <em>"lề phải"</em>), chưa thấy ai đặt ra những câu
hỏi tương tự. Nhưng đó lại là những câu hỏi quan trọng
cần được giải đáp nghiêm túc trước khi trả lời câu hỏi
<em>"ai mới thật sự là kẻ xâm hại nghiêm trọng chủ quyền
lãnh thổ Việt Nam?"</em>.

<h2>1. Thác Bản Giốc có gì lạ?</h2>

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00032.jpg" width="443"
height="330" alt="danluan_00032.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 1: Bản đồ huyện Thượng Lang – Cao Bằng
thời Pháp thuộc.</center></em>

<em><center>Hai chữ Ban Gioc trên bản đồ là "làng" Bản Giốc
ở gần thác nước.</center></em>

Thác Bản Giốc là một thắng cảnh nổi tiếng của nước ta
ở vùng biên giới Việt – Trung. Vào thời nhà Nguyễn và thời
Pháp thuộc, thác này nằm trong địa phận của huyện Thượng
Lang, ngày nay thuộc huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Trên các
bản đồ của vùng này, vị trí của thác nước thường không
được ghi rõ; hai chữ <em>"Bản Giốc"</em> được nhìn thấy
trên bản đồ thật ra nhằm để chỉ một bản (làng) của
người Tày ở gần thác nước chứ không nhằm chỉ vị trí
của thác nước (ảnh 1).

Điều gì làm cho Thác Bản Giốc trở thành đặc sắc so với
tất cả các thác nước trên toàn cõi Việt Nam? Trong cuốn
Thiên nhiên Việt Nam (ấn bản năm 1977), nhà địa lý học Lê
Bá Thảo đã miêu tả Thác Bản Giốc như sau:

<em>"Sông Quây Sơn ở phía bắc Thượng Lang sau khi chảy qua
một vùng đá vôi rộng lớn đến Bản Giốc thì đổ vào khu
vực đá phiến tạo thành ba bậc thác nước chênh nhau đến 34
m. Vào mùa lũ (từ tháng 5 đến tháng 9), nước từ các hốc
ngầm đá vôi ở thượng lưu tuôn đến đổ xuống các bậc
tung bọt nước trắng xóa, làm đoạn thung lũng ở phía dưới
thác mở ra rất rộng. Đứng trên bãi cát ven sườn thung lũng,
người ta có cảm tưởng bị vây quanh bởi những bức tường
nước đồ sộ nhưng chúng không hề gây cho chúng ta cảm giác
sợ hãi. Trái lại, phong cảnh lại cực kỳ đẹp đẽ và bình
dị."</em>[2] <em>"Ba bậc thác nước chênh nhau đến 34
m"</em> chính là vẻ đẹp cốt lõi của Thác Bản Giốc, làm
cho nó khác hẳn tất cả các thác nước khác ở nước ta.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00033.jpg" width="537"
height="339" alt="danluan_00033.jpg" /></center>

<em>Ảnh 2: Toàn cảnh Thác Bản Giốc vào mùa nước cạn. Bờ
nam (hữu ngạn) của sông Quây Sơn là lãnh thổ của Việt Nam.
Bờ bắc (tả ngạn) ngày nay thuộc lãnh thổ của Trung
Quốc.</em>

Nếu nhìn một cách toàn diện, Thác Bản Giốc bao gồm hai
phần. Phần thác chính ở phía bắc là <em>"ba bậc thác nước
chênh nhau đến 34m"</em> như trên vừa nói - tạm gọi là
<em>"thác ba tầng"</em>; phần thác phụ ở phía nam là
<em>"ba dòng thác"</em> đổ từ trên cao xuống tương tự
những thác thường thấy trong khắp cả nước, không có gì
đặc sắc. Vào mùa nước lớn, khi nước chảy tràn trề,
người ta có thể nhìn thấy rõ ba dòng thác làm nên thác phụ;
nhưng đến mùa khô, nơi đây chỉ còn các dòng nước teo tóp
đổ vào một vũng nước hẹp. Vì thế có thể nói phần thác
chính mới là <em>"linh hồn"</em> của Thác Bản Giốc. Những
hình ảnh ngày xưa thường thấy trên các sách ảnh hay lịch
treo tường thường là ảnh của phần thác chính. Do đó trước
đây mỗi khi nghe nói đến Thác Bản Giốc, ít ai biết đến
phần thác phụ. Điều đáng nói hơn cả là: vẻ đẹp của
Thác Bản Giốc – dù là thác chính nói riêng hay toàn bộ hai
phần của thác, chỉ thể hiện một cách trọn vẹn khi được
nhìn ngắm từ chính diện hay từ phía <em>"bờ bên kia"</em>,
tức là bờ phía bắc (tả ngạn sông Quây Sơn). Từ bờ Nam
(hữu ngạn), chúng ta không thể nhìn thấy toàn cảnh của hai
phần thác. Nếu chịu khó đi ra tận doi đất ven sông ở hạ
lưu, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy <em>"thác ba tầng"</em>,
nhưng chỉ có thể nhìn nghiêng chứ không thể nhìn được
chính diện (ảnh 3).

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00034.jpg" width="481"
height="351" alt="danluan_00034.jpg" /></center>

<center><em>Ảnh 3: Dòng chính của Thác Bản Giốc nhìn từ doi
đất ở hữu ngạn thuộc lãnh thổ Việt Nam</em></center>

Như vậy, không cần phải là chuyên gia về du lịch, chúng ta
cũng có thể thấy ngay được sự thật: ai sở hữu được bờ
bắc (tả ngạn sông Quây Sơn) sẽ nắm được thế thượng
phong trong khai thác du lịch vì từ phía này, người ta có thể
nhìn thấy toàn cảnh của thác (kể cả hai phần chính và
phụ), có thể đi ngược dòng sông bằng thuyền bè đến tận
chân thác, thậm chí có thể trèo lên tận đỉnh thác để
ngắm cảnh, chụp ảnh, ... Trong khi đó, người nắm giữ bờ
phía nam không thể giúp du khách nhìn ngắm tất cả các vẻ
đẹp của thác – trừ khi phải nhờ cậy phía bên kia.

Kể từ khi sở hữu được bờ bắc của sông Quây Sơn, nhà
cầm quyền Trung Quốc đã đưa Thác Bản Giốc vào danh sách các
điểm du lịch với cái tên mới là Đức Thiên (德天, Detian).
Theo lộ trình thông thường, các du khách đi từ phía Trung Quốc
sẽ được chở bằng xe ca đến một địa điểm ở phía
đông-nam của thác. Sau đó du khách sẽ đi bộ một quãng
đường và trên đường đi, họ có thể chụp được các tấm
ảnh toàn cảnh đẹp như tranh vẽ – kể cả phần thác phụ
nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Du khách cũng có thể dùng bè để
đi đến chân thác.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00035.jpg" width="490"
height="310" alt="danluan_00035.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 4: Hình ảnh thơ mộng chụp từ phía Trung
Quốc</center></em>

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00036.jpg" width="477"
height="374" alt="danluan_00036.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 5: Du khách dùng bè để đi đến chân
thác</center></em>

Một lợi thế khác của bờ bắc là du khách có thể trèo lên
thượng nguồn, mua sắm ở chợ trời biên giới để rồi sau
đó trở lại phía hạ lưu, không cần phải sang bờ phía nam.

Tóm lại, phía Trung Quốc có thể tự mình khai thác du lịch ở
thắng cảnh này. Ngược lại, nếu muốn khai thác du lịch có
hiệu quả, lôi kéo được khách quốc tế, phía Việt Nam buộc
phải nhờ vả ông bạn <em>"16 chữ vàng"</em>, mà đã nhờ
vả thì đương nhiên phải chấp nhận các điều kiện do phía
bên kia đặt ra.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00037.jpg" width="417"
height="309" alt="danluan_00037.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 6: Thác Bản Giốc: đường lên thượng nguồn
từ bờ bắc.</center></em>

Việc Trung Quốc nắm được ưu thế trong kinh doanh du lịch ở
khu vực Thác Bản Giốc không cần đến Việt Nam đã mặc nhiên
bác bỏ luận điệu của các nhà ngoại giao khi cho rằng
<em>"trong việc phân chia, ta vẫn được phần nhiều hơn vì
được toàn bộ phần thác phụ cộng với một nửa phần thác
chính"</em>. Thật ra, cách lập luận này của ông Vũ Dũng
(Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) vào năm 2009 chỉ là một sản
phẩm của thuật ngụy biện nhằm lừa dối dư luận. Nếu xem
xét Thác Bản Giốc như một thắng cảnh đẹp, một tài nguyên
thiên nhiên thì vấn đề chính không phải là giữ được phần
nhiều hơn (toàn bộ thác phụ cộng với một nửa của thác
chính), bởi vì phần bị mất đi (nửa thác chính) tuy ít hơn,
nhưng cộng với toàn bộ bờ bên trái sông Quây Sơn lại chính
là phần đẹp nhất, phần quan trọng nhất của thắng cảnh.
Bài toán chủ quyền không chỉ đơn thuần là một bài toán
cộng trừ như ông Vũ Dũng (và những người lãnh đạo ở phía
sau) đã <em>"tính toán"</em>. Đó là chưa kể đến giá trị
của bờ bắc (tả ngạn) sông Quây Sơn xét về mặt quốc
phòng, giá trị mà không có bài toán số học nào có thể lấp
liếm được, như chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau.

<h2>2. Tại sao phải chia một phần Thác Bản Giốc cho Trung
Quốc?</h2>

Trong một cuộc trả lời phỏng vấn dành cho Thu Uyên (phóng
viên của trang mạng VASC Orient)[3] vào đầu năm 2002, ông Lê
Công Phụng (lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) đã phát
biểu như sau:

<div class="special_quote">"<strong>Ông LCP</strong>: Về thác Bản
Giốc, thì đây là điều rất phức tạp. Chúng tôi cũng rất
lạ là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960
đến nay, không ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung
Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là của Trung Quốc.
Còn đối với chúng ta, thác này đã đi vào sử sách, nhất là
sách giáo khoa của học sinh, thành di tích, điểm du lịch
được nhiều người ưa chuộng. Đây là điều mà chúng tôi
rất khó hiểu, bởi lẽ trong công ước giữa nhà Thanh và Pháp,
thác Bản Giốc chỉ thuộc về chúng ta có 1/3 thôi; và theo
thực trạng cột mốc được cắm từ thời nhà Thanh, thì chúng
ta cũng chỉ được 1/3 thác.

<strong>VASC Orient</strong>: <em>Tức là cột mốc đang tồn tại
đã được cắm từ thời Thanh?</em>

<strong>Ông LCP</strong>: Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã
được cắm từ thời Thanh, xác định chỉ có chưa được một
nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định quốc tế,
khi phân giới cắm mốc thì thác được coi như một dòng sông,
một dòng suối. Đã là sông suối thì đường biên giới đi qua
luồng chính, tức là chỗ tàu thuyền đi lại được. Còn đối
với sông suối nơi tàu thuyền không đi lại được, thì
đường biên giới phải đi theo rãnh sâu nhất.

<strong>VASC Orient</strong>: <em>Chẳng nhẽ tất cả các khách du
lịch, trong đó có những người có trách nhiệm, đi thăm thác
Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó hay sao?</em>

<strong>Ông LCP</strong>: Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi
chúng tôi khảo sát thì mới thấy cột mốc nằm trên một cồn
nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm thước. Vì
vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản
Giốc.

Trước tình hình như vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong đàm phán
phải hợp lý, thỏa đáng phù hợp với mặt pháp lý. Chúng ta
phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh - Pháp, căn
cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa
phương nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi
cả. Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng nhất trí trong tất cả
các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải
là của chúng ta hoàn toàn được. Lẽ ra theo thực tiễn thì
chúng ta chỉ được 1/3. Nhưng sau đàm phán, chúng ta và bạn
đã thỏa thuận thác Bản Giốc được chia đôi, mỗi bên
được 50%. Hiện nay cả 2 bên đang tiến hành khai thác du lịch
phía bên mình.

Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý.
Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ
quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc."[4]</div>

Tóm lại, theo ông Lê Công Phụng, do phát hiện một cột mốc
<em>"nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối"</em> cách Thác
Bản Giốc <em>"khoảng mấy trăm thước"</em>, cho nên đoàn
đàm phán của Việt Nam mới phải tính toán lại chủ quyền
đối với Thác Bản Giốc.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00038.jpg" width="379"
height="329" alt="danluan_00038.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 7: Bản đồ khu vực 186 C (vùng tranh chấp ở
Cồn Pò Thoong)</center></em>

Tấm bản đồ 186 C về khu vực tranh chấp cồn Pò Thoong được
công bố trên báo Diễn Đàn của Việt kiều tại Pháp vào năm
2002 (xem ảnh 7). Được giới thiệu là <em>"tài liệu
mật"</em> rò rỉ từ Thường trực Bộ Chính trị ĐCSVN, tài
liệu này nhằm giải thích lý do tranh chấp giữa hai bên. Vì
<em>"phát hiện"</em> ra cột mốc 53 cho nên dựa theo
<em>"luật pháp quốc tế"</em>, đường biên giới phải chạy
ở phía nam cồn Pò Thoong dựa vào trung tuyến của dòng chảy
chính và như thế, toàn bộ cồn Pò Thoong phải thuộc về Trung
Quốc; phía Việt Nam chỉ được 1 phần 3 của thác chính.

Theo giải thích chính thức đăng trên Tạp chí Cộng sản thì
sau nhiều lần đàm phán gay go, hai bên đã đạt thỏa thuận:
<em>"Đường biên giới đi từ mốc 53 (cũ) lên cồn Pò Thoong
rồi đến điểm giữa của mặt thác chính. Như vậy, toàn bộ
thác phụ và 1/2 thác chính quy thuộc Việt Nam. Hai bên cũng
thoả thuận sẽ bàn bạc việc hợp tác phát triển tiềm năng
du lịch tại Thác Bản Giốc."</em>[5]

Nhìn vào tấm bản đồ do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố
(ảnh 8), chúng ta thấy đường biên giới được vạch từ cột
mốc số 835 (là cột mốc mới thay cho cột mốc 53 trước đây)
đi qua cồn Pò Thoong (trong ảnh ghi là cồn Pò Đon) đến điểm
giữa của thác chính (thác ba tầng) và sau đó đường biên
giới chạy theo trung tuyến của dòng sông Quây Sơn. Để giải
quyết tranh chấp theo cách phân chia phức tạp đó, từ cột
mốc 835 còn sinh ra thêm nhiều cột mốc phụ: cột mốc phụ
835/1 nằm sát bờ sông, cột mốc phụ 835/2 nằm trên cồn Pò
Thoong và hai cột mốc phụ ở hạ lưu: 836(1) nằm ở tả ngạn
trên lãnh thổ Trung Quốc và 836(2) nằm trên doi đất thuộc
lãnh thổ Việt Nam (giữa thác chính và thác phụ).

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00039.jpg" width="391"
height="294" alt="danluan_00039.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 8: Sơ đồ Thác Bản Giốc và đường biên giới
mới</center></em>

Nhưng tại sao cồn Pò Thoong lại bị chia cắt theo công thức
"<em>1 phần 4 thuộc về Việt Nam, 3 phần 4 thuộc về Trung
Quốc"</em>? Ông Nguyễn Hồng Thao, Phó giáo sư Tiến sĩ, thành
viên đoàn đàm phán, giải thích như sau:

<em>"Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy định của Hiệp
ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới
đi theo trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong, hai bên đã
điều chỉnh đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu
tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960, quy thuộc 1/4
cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ thác cao cho Việt Nam."</em>[6]

Điều đó có nghĩa là: đáng lẽ <em>"theo quy định của Hiệp
ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế"</em> thì cồn Pò
Thoong (rộng khoảng 2,6 hec-ta) hoàn toàn thuộc về Trung Quốc,
nhưng do "ta đã đấu tranh quyết liệt và bạn đã nhân
nhượng", cho nên hai bên mới điều chỉnh đường biên giới
để Việt Nam còn sở hữu được 1 phần 4 cồn. Nhưng điều
kỳ lạ là trên cồn Pò Thong còn có <em>"dấu tích Trạm thủy
văn xây dựng vào những năm 1960"</em>. Trạm thủy văn này do
ai xây dựng; kẻ xây dựng đó là kẻ lấn chiếm hay là kẻ
sở hữu cồn Pò Thong? Không thấy ai giải thích rõ điều này.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00040.jpg" width="411"
height="306" alt="danluan_00040.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 9: Cách phân chia lại Thác Bản Giốc</center></em>

Có một chi tiết cho thấy cách tư duy và lập luận rất kỳ
lạ của các nhà ngoại giao Việt Nam: phần thác chính (ba tầng)
được gọi là <em>"thác thấp"</em>, phần thác phụ (ba dòng)
lại được gọi là <em>"thác cao"</em>. Độc giả có thể
nhìn vào ảnh 9 để thấy giữa "thác cao" ở phía trái và
<em>"thác thấp"</em> ở phía bên phải, bên nào cao hơn bên
nào?

<h2>3. Ai là chủ nhân thật sự của Thác Bản Giốc?</h2>

Như trên đã dẫn, ngay cả ông Lê Công Phụng cũng cảm thấy
khó hiểu: <em>"Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách sử của
chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác
Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng
không nói đấy là của Trung Quốc."</em> Điều làm chúng ta
ngạc nhiên là nếu thật sự cảm thấy <em>"khó hiểu"</em>,
tại sao các nhà ngoại giao lại không tham khảo ý kiến của
giới trí thức?

Nếu xét về tài liệu thì chúng ta hoàn toàn <em><strong>có đủ
cơ sở để chứng minh toàn bộ Thác Bản Giốc là của Việt
Nam</strong></em>. Chỉ xin dẫn chứng một số tài liệu sau đây:

<strong>1)</strong> Trước hết là tài liệu của nhà địa lý
học Lê Bá Thảo. Trong cuốn sách Thiên nhiên Việt Nam đã dẫn
(ấn bản 1977), tại trang 78, có đăng tấm ảnh chụp cảnh Thác
Bản Giốc nhưng chỉ chụp thác chính, tức thác ba tầng (xem
ảnh 10).

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00041.jpg" width="402"
height="376" alt="danluan_00041.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 10: Ảnh Thác Bản Giốc in trong sách của ông Lê
Bá Thảo</center></em>

Điều đáng chú ý là dòng ghi chú bên dưới: <em>"Trên sông
Quây Sơn ở ngay biên giới"</em>. Nhìn vào tấm ảnh, chúng ta
thấy ảnh được chụp từ một doi đất nằm ở hạ lưu của
thác chính phía bên bờ bắc (tả ngạn sông Quây Sơn). Đây
chính là bằng chứng cho thấy ở tả ngạn của dòng sông phía
dưới chân thác chính vẫn có một phần đất thuộc lãnh thổ
Việt Nam. Ngày nay phần đất này đã chính thức bị cắt cho
phía Trung Quốc cho nên người Việt không còn có thể đứng
trên lãnh thổ của mình để chụp những tấm ảnh tương tự.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00042.jpg" width="456"
height="243" alt="danluan_00042.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 11: Bản đồ Miền Đông Bắc (Lê Bá
Thảo)</center></em>

Cũng trong cuốn sách nói trên, có một bản đồ <em>"Miền
Đông - Bắc"</em> đăng ở trang 41 (ảnh 11). Nhìn vào tấm bản
đồ này, chúng ta thấy địa điểm Thác Bản Giốc nằm trong
nội địa nước ta. Mặc dù đây chỉ là một tấm bản đồ
vẽ tay, nhưng một khi tác giả (vốn là một nhà địa lý học
nổi tiếng của miền Bắc) đã dám ghi vị trí của thác nước
như thế, chắc hẳn ông phải dựa vào tài liệu địa lý chính
xác cùng với sự kiểm tra thực địa. Vì vậy, có thể coi
đây là một tài liệu đáng tin cậy.

<strong>2)</strong> Tác giả Trương Nhân Tuấn ở hải ngoại tìm
được một cuốn sách xuất bản năm 1895 có tên là
<em><strong>Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si</strong></em> (Ở
Bắc Kỳ và trên vùng biên giới Quảng Tây) của Thiếu tá Famin
- Phó Chủ nhiệm Ủy ban cắm mốc biên giới Trung-Việt năm
1894.[7] Tại trang 12 và 13 có đoạn viết về Thác Bản Giốc:

<div class="special_quote"><em>"Trong phần phía Bắc (của khu quân
sự thứ hai, Deuxième Territoire)[8], dòng sông xinh đẹp mang tên
Qui-Thuận chảy ngang qua đó theo hướng Phủ Trùng Khánh. Đây
là một phụ lưu trực tiếp của sông Tây Giang (Si-Kiang). Dòng
sông này rộng 60 m, đi vào đất Bắc Kỳ bằng cửa Ai Lung và
ra khỏi nơi đây (để vào đất Trung Hoa) tại một điểm gần
đồn Trung Hoa có tên Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung lũng
rộng lớn cực kỳ phì nhiêu.</em>

<em>Hai ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt
qua một ghềnh đá và làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao
40 m. Cột nước khổng lồ rơi ầm ầm xuống một bồn nước
thứ nhất, từ đó nó nảy lên thành những chùm tia nước sủi
bọt trên những bậc thang đá vôi nhẵn bóng. Vào mùa mưa, thác
nước này trưng ra một dáng vẻ tuyệt vời, tiếng động của
thác nước có thể nghe được từ xa và dội vào những vách
núi nghe như tiếng sấm, trong khi những đám mây hơi nước hình
thành ở vùng lân cận và tan ra thành một đám mưa nhỏ thật
sự."</em></div>

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00043.jpg" width="449"
height="236" alt="danluan_00043.jpg" /></center>

<center><em>Ảnh 12: Trích đoạn trang 12 – sách của Famin: sông
Quây Sơn được ghi là Qui-Thuan</em></center>

Trong đoạn văn này, cần chú ý đến câu: <em>"Hai ki-lô-mét
trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một ghềnh
đá và làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m"</em>.
Câu này cho thấy <em>"thác nước tuyệt đẹp"</em> (tức Thác
Bản Giốc) cách điểm dòng sông Qui Thuận (tức sông Quây Sơn)
rời lãnh thổ Việt Nam khoảng 2 km. Nói cách khác, ở bờ trái
(tả ngạn) của sông, có một dải đất dài khoảng 2 km thuộc
lãnh thổ Việt Nam. Như thế trong khoảng 2km tính từ Thác Bản
Giốc, đường biên giới không thể là trung tuyến của dòng
sông như <em>"cách thức phân giới"</em> mà các nhà ngoại
giao của hai nước đã <em>"sáng tạo"</em> ra dựa theo Hiệp
ước 1999.

Một điều đáng chú ý khác trong đoạn văn này: tên sông
được ghi là Qui-Thuan (Qui-Thuận). Trong bài viết <em>"Biên
Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây"</em>, dựa
trên tài liệu của nhà Thanh, ông Trương Nhân Tuấn cho biết
sông Long (tức Tả Giang) có một phụ lưu tên là sông Qui Thuận
và ở sát biên giới Việt Nam có một châu tên là Châu Qui
Thuận 歸順州.[9] Điều này phù hợp với Đại Nam Nhất Thống
Chí, vì sách này cho biết giáp với Phủ Trùng Khánh về phía
bắc là <em>"châu Qui Thuận thuộc phủ Trấn Yên nước
Thanh"</em>.[10] Chúng ta có thể phỏng đoán: tên của dòng sông
bắt nguồn từ tên của địa phương (châu Qui Thuận) – nơi
phát nguyên của sông. Trong các bản đồ cũ, tên phiên âm
la-tinh của sông Quây Sơn là Kouei Chouan; nhưng trong các tài
liệu của Trung Quốc ngày nay, tên của dòng sông Quây Sơn là
Guichun, 歸春河, đọc theo âm Hán-Việt là <em>"Qui Xuân hà"</em>.

<strong>3)</strong> Trong số các bưu ảnh do nhà nhiếp ảnh Pierre
Dieulefils chụp, chúng ta tìm thấy tấm ảnh mang số 832. Tấm
ảnh này được ghi chú như sau: <em>"TONKIN - Région de Cao-Bang
– Cascade de Ban-Giot – Passage du gué par une compaghie de tirailleurs
tonkinois"</em> (BẮC KỲ - Vùng Cao Bằng - Thác Bản Giốc –
Một đại đội lính bản xứ Bắc Kỳ lội qua sông).

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00044_0.jpg"
width="522" height="339" alt="danluan_00044_0.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 13: Bưu ảnh 832 của Pierre Dieulefils:</center></em>

<em><center>Thác Bản Giốc - Một đại đội lính bản xứ Bắc
Kỳ lội qua sông.</center></em>

Nhìn vào tấm bưu ảnh (ảnh 13), chúng ta thấy những người
lính Việt dưới sự chỉ huy của một người Pháp đang lội
qua sông từ phía bên kia (tả ngạn) vào mùa nước cạn. Thác
trong ảnh là thác chính ba tầng chứ không phải thác phụ ba
dòng. Điều này chứng minh bờ phía bắc (tả ngạn sông Quây
Sơn) ngay dưới chân thác là đất của Bắc Kỳ (Việt Nam) chứ
không phải đất của Trung Quốc, vì thế chỉ huy người Pháp
và binh lính người bản xứ mới có thể đi tuần tra bên kia
bờ sông và từ bên đó trở về.

<strong>4)</strong> Trong bài viết <em>"Tấc đất tấc vàng"</em>
được công bố vào năm 2005[11], ông Hàn Vĩnh Diệp – một
đảng viên ĐCS, cán bộ hưu trí, người đã từng nhiều năm
công tác ở vùng Cao Bằng trước năm 1975, kể lại:

<em>"Năm 1965 chúng tôi được tham gia đoàn khảo sát thực tế
để biên soạn sách giáo khoa - Tập đọc cấp I của Khu giáo
dục Khu tự trị Việt Bắc. Hai khu giáo dục ngoài nhiệm vụ
biên soạn sách giáo khoa vở lòng - cấp I tiếng Thái, Mèo, Tày
- Nùng; còn phải soạn cả sách giáo khoa Tập đọc tiếng
Việt. Một trong những điểm khảo sát đợt ấy là
<strong><em>Kênh Copáo và thác Bản Giốc</em></strong> thuộc huyện
Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng. Kênh Copáo lấy nguồn nước từ
một đầm trũng bên kia biên giới Trung Quốc (huyện Tỉnh Tây,
Quảng Tây) cho các cánh đồng phía Bắc huyện Trùng Khánh. (…)
Đến thác Bản Giốc, chúng tôi sang cả bên bờ Bắc sông Quây
Sơn, vào sâu hơn một cây số vẫn là làng bản dân ta."</em>

<strong>5)</strong> Trong bài báo đăng trên <strong><em>Vietnam
Net</em></strong> đã được trích dẫn, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao
– thành viên đoàn đàm phán, đã tiết lộ: trên cồn Pò Thoong
vẫn còn <em>"dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm
1960"</em>.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00045.jpg" width="502"
height="376" alt="danluan_00045.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 14: Cột mốc 53 cũ (bên trái) nằm cạnh cột
mốc 835 mới (bên phải)</center></em>

Nếu xem lại <em>"bị vong lục"</em> (hay còn gọi là giác
thư, memorandum) năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, chúng ta
thấy có đoạn: <em>"Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thủy,
huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác
Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh
cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía
Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người, kể cả lực lượng
vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn
bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công
nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê-tông cốt
sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm
phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và ngang
nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc."</em>[12]

Như vậy, trạm thủy văn này rõ ràng là do phía Việt Nam xây
dựng, bởi vì trước năm 1976, cồn Pò Thoong vẫn còn thuộc
về lãnh thổ Việt Nam và <em>"chính quyền Bắc Kinh cũng đã
công nhận sự thật đó"</em>. Đây chính là một bằng chứng
hùng hồn về chủ quyền của Việt Nam đối với cồn Pò
Thoong.

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/danluan_00046.jpg" width="502"
height="377" alt="danluan_00046.jpg" /></center>

<em><center>Ảnh 15: Cột mốc phụ 835-1 nằm đối diện với cồn
Pò Thoong</center></em>

Việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm cồn Pò Thoong vào năm
1976 và phá hủy trạm thủy văn ở nơi đó không thể che lấp
được sự thật: trước đó Việt Nam là chủ sở hữu của
cồn này, và đương nhiên là chủ sở hữu của toàn bộ Thác
Bản Giốc. Toàn bộ hồ sơ về việc thành lập và quá trình
hoạt động của trạm thủy văn chính là một bằng chứng về
chủ quyền của Việt Nam. Điều này chứng tỏ cột mốc 53
nằm sai vị trí, và việc nó bị dời đến địa điểm hiện
nay là do phía Trung Quốc thực hiện sau khi đã chiếm cồn Pò
Thoong.

Ngược lại, nếu khẳng định như ông Lê Công Phụng rằng
cột mốc 53 đã tồn tại nơi đó (trước mặt cồn Pò Thoong)
từ khi ký hiệp định Pháp - Thanh thì kẻ xâm chiếm cồn Pò
Thoong, vi phạm hiệp định Pháp - Thanh chính là chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa khi cho xây dựng trạm thủy văn vào thập
niên 1960. Khi công bố điều này, không lẽ ông Lê Công Phụng
muốn chuẩn bị cho tình huống Đảng cộng sản Việt Nam sẽ
công khai xin lỗi Đảng cộng sản Trung Quốc về việc xâm
chiếm cồn Pò Thoong vào thập niên 1960?

Tóm lại, từ chỗ là một thác nước hoàn toàn thuộc chủ
quyền của Việt Nam, sau hiệp ước 1999 một phần thác chính
lại trở thành sở hữu của Trung Quốc. Từ chỗ toàn bộ bờ
phía bắc tính từ phía trên thác cho đến tận chân thác đều
là của Việt Nam, ngày nay toàn bộ bờ bắc – tính từ cột
mốc 835 mới cho đến hạ lưu, lại nằm trong lãnh thổ Trung
Quốc. Sự thay đổi kỳ quặc này nhất định là có liên quan
đến cái cột mốc số 53 gây bất ngờ nói trên.

Để hiểu rõ sự thật, chúng ta cần tìm hiểu <strong><em>cột
mốc số 53</em></strong>, đúng hơn là <strong><em>vị trí của
cột mốc 53</em></strong>. Phải chăng nó vẫn nằm ở vị trí
đó từ khi có hiệp định Pháp - Thanh như các vị chức sắc
Bộ Ngoại giao nước ta vẫn khăng khăng khẳng định? Hay nó là
một thứ <em>"cột mốc có chân"</em> có thể di chuyển từ
nơi này sang nơi khác theo thời gian?

Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012

<strong>Mai Thái Lĩnh</strong>

(Còn tiếp)
________________________________________

<strong>Chú giải:</strong>

[1] <a
href="http://www.thanhnien.com.vn/pages/20111023/ban-gioc-cho-ngay-cat-canh.aspx">Bản
Giốc chờ ngày cất cánh</a>, Thanh Niên 23/10/2011:

[2] Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà nội 1977, tr. 43-44.

[3] VASC Orient chính là tiền thân của trang mạng VietNamNet hiện
nay

[4] "Thứ trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng trả lời phỏng
vấn của VASC Orient chiều 28/1/2002". Mặc dù đã bị bóc gỡ,
bài phỏng vấn này vẫn được lưu truyền trên mạng Internet
trong suốt một thập niên qua.

[5] Nguyễn Trường Giang, <a
href="http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=9072&print=true">"Hoàn
thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt
Nam và Trung Quốc"</a>, Tạp chí cộng sản, 27/2/2009

[6] Nguyễn Hồng Thao, <a
href="http://vnn.vietnamnet.vn/chinhtri/2009/01/821775/">"Việt-Trung và
đường biên giới pháp lý, công bằng, hữu nghị"</a>, Vietnam
Net 02/01/2009

Ông Phó giáo sư Tiến sĩ này về sau thăng chức Phó Chủ nhiệm
Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao và gần đây,
được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Malaysia.

[7] Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, par le Commandant Famin,
Vice-Président de la Commission d'Abornement des Frontières
Sino-Annamites en 1894, Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie
Coloniale, 1895. Ảnh chụp lại hai trang 12 và 13 đã được công
bố trong <a href="http://www.boxitvn.net/bai/15750">"Thư ngỏ của
nhà khoa học Thái Văn Cầu gửi PGS TS Nguyễn Hồng Thao, Phó
Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt
Nam"</a>: Bauxite Vietnam, 07/01/2011

[8] Người Pháp thành lập ở vùng thượng du Bắc Việt 4 khu
quân sự (territoires militaires): (1) Móng Cái, (2) Cao Bằng, (3) Hà
Giang và (4) Lai Châu. Về sau, còn thành lập thêm khu thứ 5 ở
Phong Saly (Lào). Đào Duy Anh gọi là đạo quân sự thứ hai (Xem
Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Viện Sử học
VN - Nxb Thuận Hóa, 1996,tr. 219).

[9] Trương Nhân Tuấn, <a
href="http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=95&fid=-1">"Biên
Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây"</a>, phần I,
29-08-2009

[10] Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí,
tập 4, Nxb Thuận Hóa 1997, tr. 403.

[11] Hàn Vĩnh Diệp, "Tấc đất tấc vàng". Bài này được
đăng trên Mạng Ý kiến (ykien.net) vào năm 2005, nhưng đến nay
trang mạng này không còn tồn tại vì bị tin tặc đánh phá. Có
thể tham khảo bản đăng lại tại địa chỉ:
http://www.freewebs.com/tinvn/TacDatTacVang.htm

[12] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nhà xuất
bản Sự Thật, Hà Nội, 1979, tr. 11-12. Cuốn sách này chính là
toàn văn của bản «bị vong lục» (giác thư, memorandum) của
Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố ngày 15-3-1979.


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11607), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét